Ngay từ đầu năm 1981, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 31-CP ngày 23/01/1981
ban hành Điều lệ về cải tiến kỹ thuật hợp lý hóa sản xuất và sáng chế (viết tắt
là Nghị định 31). Theo đó, sáng kiến được hiểu: “Sáng
kiến cải tiến kỹ thuật - hợp lý hoá sản xuất được công nhận theo Điều lệ này là
một giải pháp kỹ thuật hoặc giải pháp tổ chức sản xuất mới, có khả năng áp dụng
và mang lại lợi ích thiết thực cho cơ quan, đơn vị (kể cả đơn vị kinh tế tập
thể) nhận đăng ký” (Điều 1, Nghị định 31).
Nội dung của sáng kiến được Nghị
định 31 quy định gồm: (1) Cải tiến kết cấu máy móc, trang bị, công cụ lao động, sản phẩm,
cải tiến phương án thiết kế hoặc kết cấu các công trình xây dựng ...; (2) Cải tiến tính
năng, công dụng, thành phần của nguyên liệu, vật liệu hoặc sản phẩm ...; (3) Cải tiến
phương pháp khảo sát, thiết kế, công nghệ, thi công, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi; phương pháp
phòng bệnh, chữa bệnh...; (4) Cải tiến tổ chức sản xuất nhằm sử dụng hợp lý sức lao động, công
cụ lao động, nguyên liệu, vật liệu, năng lượng, tiền vốn,....
Cũng theo Nghị định 31, tác giả
sáng kiến được hưởng quyền lợi như: Tác giả được cấp giấy chứng nhận sáng kiến
hoặc bằng tác giả sáng chế có quyền nhận khen thưởng khi cơ quan, xí nghiệp áp
dụng sáng kiến hay sáng chế của mình. Quyền nhận tiền thưởng được phép chuyển
giao cho người thừa kế theo pháp luật Nhà nước; Tác giả của những sáng kiến hay
sáng chế có giá trị khoa học kỹ thuật và kinh tế đặc biệt lớn được Nhà nước
trao tặng các danh hiệu và giải thưởng quốc gia về khoa học kỹ thuật; Thủ
trưởng các cấp có trách nhiệm giải quyết những quyền lợi về khen thưởng cho tác
giả sáng kiến hay sáng chế theo đúng quy định,…
Bên cạnh đó, Nghị định 31 cũng có
chính sách thưởng khuyến khích những người hỗ trợ tác giả và những người tổ
chức vá áp dụng lần đầu sáng kiến, sáng chế, cụ thể: Những
người được phân công giúp đỡ tác giả về mặt kỹ thuật trong quá trình nghiên cứu
thí nghiệm để tạo ra sáng kiến, sáng chế được nhận tiền thưởng khuyến khích,
cao nhất không quá 25% số tiền thưởng cho tác giả; Những người tham gia tổ
chức và áp dụng lần đầu sáng kiến hay sáng chế của cơ quan, đơn vị được nhận
tiền thưởng khuyến khích, cao nhất không quá 50% số tiền thưởng cho tác giả; Những
người chủ động đề xuất, trực tiếp tham gia tổ chức và áp dụng lần đầu sáng
kiến, sáng chế của cơ quan, xí nghiệp khác, sau khi áp dụng thành công được
nhận tiền thưởng khuyến khích, cao nhất không qúa 50% số tiền thưởng cho tác
giả của một sáng kiến hay sáng chế có số tiền làm lợi tương đương.
Có thể thấy, tại thời điểm ban
hành, Nghị định 31 được coi là bước đột phá, kích thích việc không ngừng đổi
mới, phát huy sáng tạo đối với người lao động. Nhờ đó hình thành nên phong trào
sáng kiến trong sản xuất diễn ra trong các nhà máy, xí nghiệp. Từ đó, họat động
sáng kiến trở thành tiêu chí chung trong phong trào thi đua yêu nước, đặc biệt trong
hoạt động của tổ chức công đoàn.
Ngày 02/3/2012, Chính phủ ban hành
Điều lệ Sáng kiến kèm theo Nghị định số 13/2012/NĐ-CP (viết tắt là Nghị định
13), thay thế Nghị định 31. Theo đó: “Sáng kiến là giải
pháp kỹ thuật, giải pháp quản lý, giải pháp tác nghiệp, hoặc giải pháp ứng dụng
tiến bộ kỹ thuật (gọi chung là giải pháp)”, được cơ sở công nhận nếu đáp ứng
đầy đủ các điều kiện sau đây: (1) Có tính mới trong phạm vi cơ sở đó; (2)
Đã được áp dụng hoặc áp dụng thử tại cơ sở đó và có khả năng mang lại lợi ích
thiết thực; (3) Không thuộc đối tượng bị loại trừ (Giải pháp mà việc công bố,
áp dụng giải pháp trái với trật tự công cộng hoặc đạo đức xã hội; Giải pháp là
đối tượng đang được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật
tính đến thời điểm xét công nhận sáng kiến).
Bên cạnh hai Nghị định nêu trên
thì Luật Thi đua Khen thưởng được ban hành năm 2003
(được sửa đổi, bổ sung các năm 2005, 2009, 2013), cụ thể ở Điều 23, Văn bản hợp
nhất Luật Thi đua Khen thưởng số 16/VBHN-VPQH ngày 13/12/2013 của Văn phòng
Quốc hội, có nêu: “Sáng kiến là giải pháp kỹ thuật, giải pháp quản lý, giải
pháp tác nghiệp hoặc giải pháp ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để tăng năng suất lao
động, tăng hiệu quả công tác được cơ sở công nhận hoặc có đề tài nghiên cứu
khoa học đã nghiệm thu được áp dụng hoặc mưu trí, sáng tạo trong chiến đấu,
phục vụ chiến đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được đơn vị công nhận”.
So với Nghị định 31 thì quy định về sáng kiến theo Nghị định 13,
Luật Thi đua, Khen thưởng được đánh giá là có nhiều điểm mới:
- Sáng kiến được thừa nhận trên nhiều lĩnh vực, ngoài các giải
pháp trong lĩnh vực kỹ thuật, sáng kiến còn được công nhận trong lĩnh vực quản
lý, tác nghiệp, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, điều đó thúc đẩy hoạt
động sáng tạo trên mọi mặt của đời sống xã hội.
- Nghị định 13 quy định rõ quyền lợi cho tác giả sáng kiến và người
tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu. Thời hạn được hưởng thù lao là 3
năm đầu tiên áp dụng sáng kiến. Mức thù lao cho tác giả được áp dụng tối thiểu
là 7% tiền làm lợi thu được mỗi năm, hoặc tối thiểu 15% giá chuyển giao.
Nếu không tính được tiền làm lợi sáng kiến thì tác giả được trả
với mức tối thiểu là 5 lần mức lương tối thiểu chung theo quy định của nhà
nước. Những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu được thực hiện
cùng lúc với mỗi lần trả thù lao cho tác giả sáng kiến, với mức tối thiểu 20%
mức thù lao cho tác giả sáng kiến.
Việc trả thù lao cho những người tham gia tổ chức áp dụng lần đầu
là điểm tiến bộ của Nghị định 13 về sáng kiến. Bởi với một giải pháp mới hình
thành còn chứa đựng rất nhiều rủi ro, việc đưa giải pháp vào triển khai áp dụng
lần đầu đóng vai trò hết sức quan trọng. Nó quyết định sự thành công của giải
pháp. Những cá nhân dám chấp nhận mạo hiểm, đóng vai trò tiên phong cho quá trình
lần đầu tiên tham gia tổ chức áp dụng, xứng đáng được thưởng bên cạnh những cá
nhân đã đưa ra giải pháp.
- Quy định loại trừ đối tượng không được công nhận sáng kiến. Việc
quy định này nhằm hướng đến việc nhân rộng, phổ biến các giải pháp sáng kiến
phục vụ cho lợi ích cộng đồng theo cơ chế “phi thương mại” các thành quả nghiên
cứu. Tuy nhiên, sáng kiến sau khi được công nhận, nếu đáp ứng điều kiện vẫn có
thể được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ như các giải pháp kỹ thuật khác. Nhưng từ
thời điểm quyền sở hữu trí tuệ được thiết lập, các quy định của pháp luật sở
hữu trí tuệ được áp dụng đối với giải pháp đó thay thế các quy định về sáng
kiến.
- Bên cạnh những lợi ích về vật chất, sáng kiến còn có giá trị về
mặt tinh thần. Các văn bản quy phạm pháp luật về thi đua khen thưởng quy định
sáng kiến thuộc một trong các tiêu chí để công nhận thi đua như: Chiến sĩ thi
đua cơ sở; Chiến sĩ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương; Chiến sĩ
thi đua toàn quốc. Từ đó, vai trò, vị trí của công tác sáng kiến trở nên hết
sức quan trọng đối với kết quả làm việc của từng cá nhân.
Sáng kiến: Mô hình tiết kiệm điện trong nuôi tôm (Công ty Điện lực
Sóc Trăng) nghiên cứu đạt giải Nhất cuộc thi Sáng kiến vỉ cộng đồng (Ảnh: Từ
Internet)
Tác giả Nguyễn Văn Nưng, huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc trăng, với
giải pháp “Máy vô chân ấm mía” đạt giải Nhất Hội thi sáng tạo kỹ thuật tỉnh Sóc
Trăng lần thứ IX (Ảnh: Từ Internet)
Nông dân Quách Văn Hôm, huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng, tác giả
của 01 bằng độc quyền sáng chế và 01 bằng độc quyền giải pháp hữu ích (Ảnh: Từ
internet)
Như đã nói ở trên, hiện nay có hai hệ thống quy định khác nhau
liên quan đến khái niệm sáng kiến song song tồn tại. Điều này, dẫn đến khi áp
dụng sẽ xảy ra bất cập:
Một là, khi nói đến sáng kiến, thông thường đó phải là một giải
pháp có tính mới. Nhưng Luật Thi đua, Khen thưởng không đề cập đến tính mới của
giải pháp. Một giải pháp nếu không có tính mới thì không thể gọi là sáng kiến.
Bởi việc tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả công tác có thể bằng nhiều cách
không cần tính mới (tăng giờ làm trong một ngày lao động cũng có thể làm tăng
năng suất lao động). Ngoài việc đưa ra khái niệm về sáng kiến, cho tới thời
điểm hiện nay, hệ thống văn bản quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng không
có thêm bất cứ quy định nào khác nhằm bổ sung làm rõ các quy định sáng kiến phù
hợp với các danh hiệu, thi đua khen thưởng như thế nào là “sáng kiến có phạm vi
ảnh hưởng cấp tỉnh”, “sáng kiến có phạm vi ảnh hưởng cấp toàn quốc”.
Hai là, Nghị định 13 đề cập công nhận sáng kiến cho các giải
pháp thuộc 4 lĩnh vực (kỹ thuật, tác nghiệp, quản lý, ứng dụng tiến bộ khoa học
và công nghệ), nhưng với quy định cụ thể về tính mới của giải pháp được công
nhận sáng kiến nêu tại Khoản 1, Điều 4, Nghị định 13 thì chỉ có các giải pháp
kỹ thuật mới có thể thỏa mãn điều kiện công nhận sáng kiến.
Các giải pháp trong các lĩnh vực còn lại, đặc biệt các giải pháp
trong lĩnh vực quản lý không thể thỏa mãn các quy định tại Khoản 1, Điều 4,
Nghị định 13. Bởi lẽ, giải pháp quản lý khác với giải pháp kỹ thuật ở chỗ, để
thực hiện quản lý điều hành một tổ chức, cơ quan hay cộng đồng dân chúng, thì
phải ban hành các quyết định quản lý (như việc xây dựng và ban hành các văn bản
pháp quy). Việc áp dụng chỉ thực thi khi quyết định được công bố, ban hành rộng
rãi làm cơ sở để triển khai. Điều này sẽ vi phạm các quy định tại điểm b, điểm
d của Khoản 1, Điều 4, Nghị định 13. Với việc quy định này thì những người làm
công tác quản lý, đặc biệt đối với các công chức thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà
nước sẽ khó có, thậm chí không có sáng kiến theo quy định của Nghị định 13.
Ba là, áp dụng đối tượng loại trừ về công nhận sáng kiến còn chưa
hợp lý mặc dù đây là điểm mới về sáng kiến so với quy định trước đây. Việc loại
trừ nhằm hướng đến việc nhân rộng, phổ biến các giải pháp sáng kiến phục vụ cho
lợi ích cộng đồng.
Nhưng đây cũng chính là điểm chưa phù hợp, vì trong các đối tượng
được xác lập quyền sở hữu trí tuệ, có những đối tượng bắt buộc phải thực hiện
đăng ký, ví dụ: kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, giải pháp hữu ích,… Tuy nhiên,
có những đối tượng, được bảo hộ không cần tiến hành đăng ký, như là các chương
trình máy tính. Theo pháp luật sở hữu trí tuệ chương trình máy tính là đối
tượng được bảo hộ dưới hình thức quyền tác giả. Một giải pháp là chương trình
máy tính hoàn toàn đáp ứng các tiêu chí về tính mới, đã được áp dụng hoặc áp
dụng thử, nhưng luôn luôn thuộc đối tượng loại trừ, vì nó là đối tượng được
pháp luật bảo hộ dưới hình thức quyền tác giả, mà quyền tác giả được xác lập
ngay khi nó được thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định, không cần phải
đăng ký theo pháp luật sở hữu trí tuệ. Vì vậy, với quy định hiện nay về sáng
kiến tại Nghị định 13, thì một tác giả chương trình máy tính không thể có giải
pháp được công nhận sáng kiến.
Hoặc nếu một giải pháp đạt các điều kiện đăng ký bảo quyền sở hữu
công nghiệp đối với sáng chế và tác giả giải pháp tiến hành nộp đơn đăng ký bảo
quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế cho giải pháp của mình trước khi nộp
đơn công nhận sáng kiến thì theo quy định loại trừ nêu trên giải pháp đó sẽ
không được công nhận sáng kiến.
Bốn là, chưa có sự tương thích giữa Nghị định 13 với Luật Thi
đua, Khen thưởng. Theo Nghị định 13, sáng kiến được đánh giá và công nhận trong
phạm vi “cơ sở”. “Cơ sơ” quy định trong Nghị định 13 là: “cơ quan, tổ chức được
thành lập theo pháp luật, có thể nhân danh chính mình tham gia quan hệ pháp
luật dân sự một cách độc lập”. Các cơ sở có quyền đánh giá và công nhận sáng
kiến bao gồm: cơ sở là chủ đầu tư tạo ra sáng kiến; cơ sở được tác giả sáng
kiến chuyển giao. Nghị định 13 và văn bản hướng dẫn chưa đề cập đến khen thưởng
theo các cấp theo mức độ công nhận danh hiệu thi đua, khen thưởng.
Theo quy định của Luật Thi đua, Khen thưởng, thì việc công nhận
danh hiệu thi đua “chiến sĩ thi đua” được chia thành 3 cấp: “chiến sĩ thi đua
cơ sở”; “chiến sĩ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương”, “chiến sĩ
thi đua toàn quốc”. Theo đó, sáng kiến để công nhận chiến sĩ thi đua ở 3 cấp
này, được xem xét ở phạm vi ảnh hưởng theo cấp công nhận chiến sĩ thi đua tương
ứng, do hội đồng sáng kiến, hội đồng khoa học ở từng cấp công nhận.
Quy mô và khái niệm “cơ sở” của pháp luật thi đua, khen thưởng
hoàn toàn khác quy mô và khái niệm “cơ sở” của Nghị định 13. Trong công tác thi
đua, khen thưởng, việc thi đua, khen thưởng được tổng kết, đánh giá theo ngành,
địa giới hành chính.
Theo Luật thi đua khen thưởng, tại các địa phương, danh hiệu
“Chiến sĩ thi đua cơ sở” có thể do chủ tịch UBND huyện, thị xã, thành phố hoặc
Giám đốc sở, ban, ngành;… công nhận. Sáng kiến để xét thi đua, khen thưởng do
hội đồng sáng kiến, hội đồng khoa học tại huyện, thị xã, thành phố hoặc các sở,
ban, ngành;… xem xét đánh giá trong phạm vi cấp cơ sở đó.
Trong cấp cơ sở có thể có nhiều “cơ sở” là cơ quan, tổ chức được thành
lập theo pháp luật, có thể nhân danh chính mình tham gia quan hệ pháp luật dân
sự một cách độc lập theo quy định của Nghị định 13. Ví dụ, tại Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn ngoài Văn phòng Sở còn có các trung tâm, chi cục,... là
các “cơ sở” có thể đánh giá và công nhận để khen thưởng, trả thù lao cho sáng
kiến của mình theo quy định của Điều lệ sáng kiến theo Nghị định 13. Tính mới
của “cơ sở” quy định tại Nghị định 13 và “cấp cơ sở” của Luật Thi đua, Khen
thưởng không đồng nhất về quy mô xem xét, đánh giá. Một sáng kiến có thể mới ở tại
đơn vị trực thuộc một Sở, nhưng chưa chắc đã mới ở “cấp sở”.
Và như vậy, một sáng kiến được công nhận ở cơ sở theo Nghị định 13
không được sử dụng ở các cấp cao hơn để xét thi đua, khen thưởng, mặc dù như đã
biết để sáng kiến được công nhận theo Nghị định 13 thì sáng kiến đó thực sự là
“mới” và có hiệu quả và thậm chí sáng kiến đó có thể đáp ứng điều kiện để bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp về sáng chế (tính mới yêu cầu đối với sáng chế mang
giá trị tuyệt đối, mới trên toàn cầu). Điều này, cũng dẫn đến một thực trạng là
các cơ quan, đơn vị thuộc hệ thống chính trị chưa hiểu thấu đáo về công tác
sáng kiến. Sáng kiến vẫn được hiểu là phục vụ cho công tác thi đua, khen
thưởng. Từ đó, hạn chế việc phát huy sáng kiến, đổi mới sáng tạo trong việc
nâng cao năng suất, cải tiến chất lượng hoạt động. Trên cả nước, đã có nhiều
tỉnh, thành phố xây dựng và triển khai quy định thi hành Điều lệ Sáng kiến ở
địa phương, tuy nhiên việc xây dựng các quy định này vẫn còn “phục vụ” cho công
tác thi đua, khen thưởng hơn là đi vào thực chất của công tác sáng kiến.
Tập huấn Đăng ký, công nhận và khai thác sáng kiến tại tỉnh Sóc
Trăng năm 2019
Tóm lại, sáng kiến là kết quả của hoạt động sáng tạo, rất cần
thiết cho công cuộc đổi mới, phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhà
nước đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, gắn liền với những quyền lợi
vật chất và giá trị tinh thần để thúc đẩy họat động sáng kiến. Tuy nhiên, vì chưa
có sự thống nhất quy định khác nhau về sáng kiến nên việc áp dụng hiện nay còn nhiều
bất cập. Do vậy, các cơ quan có thẩm quyền cần xem xét chỉnh sửa, bổ sung để
hoàn thiện các quy định về sáng kiến cho phù hợp nhằm đáp ứng yêu cầu và nhiệm
vụ thực tiễn để triển khai áp dụng rộng rãi tại các địa phương.
Nguyễn Phạm
Thu Hiền