Lượt xem: 10268
Đôi điều về quy định sáng kiến và hoạt động sáng kiến
Sáng kiến là kết quả của hoạt động sáng tạo, có ý nghĩa quan trọng, đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp lý nhằm thúc đẩy hoạt động sáng kiến, đổi mới sáng tạo, tăng cường phạm vi triển khai áp dụng.

Ngay từ đầu năm 1981, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 31-CP ngày 23/01/1981 ban hành Điều lệ về cải tiến kỹ thuật hợp lý hóa sản xuất và sáng chế (viết tắt là Nghị định 31). Theo đó, sáng kiến được hiểu: “Sáng kiến cải tiến kỹ thuật - hợp lý hoá sản xuất được công nhận theo Điều lệ này là một giải pháp kỹ thuật hoặc giải pháp tổ chức sản xuất mới, có khả năng áp dụng và mang lại lợi ích thiết thực cho cơ quan, đơn vị (kể cả đơn vị kinh tế tập thể) nhận đăng ký” (Điều 1, Nghị định 31).

Nội dung của sáng kiến được Nghị định 31 quy định gồm: (1) Cải tiến kết cấu máy móc, trang bị, công cụ lao động, sản phẩm, cải tiến phương án thiết kế hoặc kết cấu các công trình xây dựng ...; (2) Cải tiến tính năng, công dụng, thành phần của nguyên liệu, vật liệu hoặc sản phẩm ...; (3) Cải tiến phương pháp khảo sát, thiết kế, công nghệ, thi công, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi; phương pháp phòng bệnh, chữa bệnh...; (4) Cải tiến tổ chức sản xuất nhằm sử dụng hợp lý sức lao động, công cụ lao động, nguyên liệu, vật liệu, năng lượng, tiền vốn,....

Cũng theo Nghị định 31, tác giả sáng kiến được hưởng quyền lợi như: Tác giả được cấp giấy chứng nhận sáng kiến hoặc bằng tác giả sáng chế có quyền nhận khen thưởng khi cơ quan, xí nghiệp áp dụng sáng kiến hay sáng chế của mình. Quyền nhận tiền thưởng được phép chuyển giao cho người thừa kế theo pháp luật Nhà nước; Tác giả của những sáng kiến hay sáng chế có giá trị khoa học kỹ thuật và kinh tế đặc biệt lớn được Nhà nước trao tặng các danh hiệu và giải thưởng quốc gia về khoa học kỹ thuật; Thủ trưởng các cấp có trách nhiệm giải quyết những quyền lợi về khen thưởng cho tác giả sáng kiến hay sáng chế theo đúng quy định,…

Bên cạnh đó, Nghị định 31 cũng có chính sách thưởng khuyến khích những người hỗ trợ tác giả và những người tổ chức vá áp dụng lần đầu sáng kiến, sáng chế, cụ thể: Những người được phân công giúp đỡ tác giả về mặt kỹ thuật trong quá trình nghiên cứu thí nghiệm để tạo ra sáng kiến, sáng chế được nhận tiền thưởng khuyến khích, cao nhất không quá 25% số tiền thưởng cho tác giả; Những người tham gia tổ chức và áp dụng lần đầu sáng kiến hay sáng chế của cơ quan, đơn vị được nhận tiền thưởng khuyến khích, cao nhất không quá 50% số tiền thưởng cho tác giả; Những người chủ động đề xuất, trực tiếp tham gia tổ chức và áp dụng lần đầu sáng kiến, sáng chế của cơ quan, xí nghiệp khác, sau khi áp dụng thành công được nhận tiền thưởng khuyến khích, cao nhất không qúa 50% số tiền thưởng cho tác giả của một sáng kiến hay sáng chế có số tiền làm lợi tương đương.

Có thể thấy, tại thời điểm ban hành, Nghị định 31 được coi là bước đột phá, kích thích việc không ngừng đổi mới, phát huy sáng tạo đối với người lao động. Nhờ đó hình thành nên phong trào sáng kiến trong sản xuất diễn ra trong các nhà máy, xí nghiệp. Từ đó, họat động sáng kiến trở thành tiêu chí chung trong phong trào thi đua yêu nước, đặc biệt trong hoạt động của tổ chức công đoàn.

Ngày 02/3/2012, Chính phủ ban hành Điều lệ Sáng kiến kèm theo Nghị định số 13/2012/NĐ-CP (viết tắt là Nghị định 13), thay thế Nghị định 31. Theo đó: “Sáng kiến là giải pháp kỹ thuật, giải pháp quản lý, giải pháp tác nghiệp, hoặc giải pháp ứng dụng tiến bộ kỹ thuật (gọi chung là giải pháp)”, được cơ sở công nhận nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây: (1) Có tính mới trong phạm vi cơ sở đó; (2) Đã được áp dụng hoặc áp dụng thử tại cơ sở đó và có khả năng mang lại lợi ích thiết thực; (3) Không thuộc đối tượng bị loại trừ (Giải pháp mà việc công bố, áp dụng giải pháp trái với trật tự công cộng hoặc đạo đức xã hội; Giải pháp là đối tượng đang được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật tính đến thời điểm xét công nhận sáng kiến).

Bên cạnh hai Nghị định nêu trên thì Luật Thi đua Khen thưởng được ban hành năm 2003 (được sửa đổi, bổ sung các năm 2005, 2009, 2013), cụ thể ở Điều 23, Văn bản hợp nhất Luật Thi đua Khen thưởng số 16/VBHN-VPQH ngày 13/12/2013 của Văn phòng Quốc hội, có nêu: “Sáng kiến là giải pháp kỹ thuật, giải pháp quản lý, giải pháp tác nghiệp hoặc giải pháp ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả công tác được cơ sở công nhận hoặc có đề tài nghiên cứu khoa học đã nghiệm thu được áp dụng hoặc mưu trí, sáng tạo trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được đơn vị công nhận”.

So với Nghị định 31 thì quy định về sáng kiến theo Nghị định 13, Luật Thi đua, Khen thưởng được đánh giá là có nhiều điểm mới:

- Sáng kiến được thừa nhận trên nhiều lĩnh vực, ngoài các giải pháp trong lĩnh vực kỹ thuật, sáng kiến còn được công nhận trong lĩnh vực quản lý, tác nghiệp, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, điều đó thúc đẩy hoạt động sáng tạo trên mọi mặt của đời sống xã hội.

- Nghị định 13 quy định rõ quyền lợi cho tác giả sáng kiến và người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu. Thời hạn được hưởng thù lao là 3 năm đầu tiên áp dụng sáng kiến. Mức thù lao cho tác giả được áp dụng tối thiểu là 7% tiền làm lợi thu được mỗi năm, hoặc tối thiểu 15% giá chuyển giao.

Nếu không tính được tiền làm lợi sáng kiến thì tác giả được trả với mức tối thiểu là 5 lần mức lương tối thiểu chung theo quy định của nhà nước. Những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu được thực hiện cùng lúc với mỗi lần trả thù lao cho tác giả sáng kiến, với mức tối thiểu 20% mức thù lao cho tác giả sáng kiến.

Việc trả thù lao cho những người tham gia tổ chức áp dụng lần đầu là điểm tiến bộ của Nghị định 13 về sáng kiến. Bởi với một giải pháp mới hình thành còn chứa đựng rất nhiều rủi ro, việc đưa giải pháp vào triển khai áp dụng lần đầu đóng vai trò hết sức quan trọng. Nó quyết định sự thành công của giải pháp. Những cá nhân dám chấp nhận mạo hiểm, đóng vai trò tiên phong cho quá trình lần đầu tiên tham gia tổ chức áp dụng, xứng đáng được thưởng bên cạnh những cá nhân đã đưa ra giải pháp.

- Quy định loại trừ đối tượng không được công nhận sáng kiến. Việc quy định này nhằm hướng đến việc nhân rộng, phổ biến các giải pháp sáng kiến phục vụ cho lợi ích cộng đồng theo cơ chế “phi thương mại” các thành quả nghiên cứu. Tuy nhiên, sáng kiến sau khi được công nhận, nếu đáp ứng điều kiện vẫn có thể được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ như các giải pháp kỹ thuật khác. Nhưng từ thời điểm quyền sở hữu trí tuệ được thiết lập, các quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ được áp dụng đối với giải pháp đó thay thế các quy định về sáng kiến.

- Bên cạnh những lợi ích về vật chất, sáng kiến còn có giá trị về mặt tinh thần. Các văn bản quy phạm pháp luật về thi đua khen thưởng quy định sáng kiến thuộc một trong các tiêu chí để công nhận thi đua như: Chiến sĩ thi đua cơ sở; Chiến sĩ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương; Chiến sĩ thi đua toàn quốc. Từ đó, vai trò, vị trí của công tác sáng kiến trở nên hết sức quan trọng đối với kết quả làm việc của từng cá nhân.

 

Sáng kiến: Mô hình tiết kiệm điện trong nuôi tôm (Công ty Điện lực Sóc Trăng) nghiên cứu đạt giải Nhất cuộc thi Sáng kiến vỉ cộng đồng (Ảnh: Từ Internet)

 

Tác giả Nguyễn Văn Nưng, huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc trăng, với giải pháp “Máy vô chân ấm mía” đạt giải Nhất Hội thi sáng tạo kỹ thuật tỉnh Sóc Trăng lần thứ IX (Ảnh: Từ Internet)

 

Nông dân Quách Văn Hôm, huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng, tác giả của 01 bằng độc quyền sáng chế và 01 bằng độc quyền giải pháp hữu ích (Ảnh: Từ internet)

Như đã nói ở trên, hiện nay có hai hệ thống quy định khác nhau liên quan đến khái niệm sáng kiến song song tồn tại. Điều này, dẫn đến khi áp dụng sẽ xảy ra bất cập:

Một là, khi nói đến sáng kiến, thông thường đó phải là một giải pháp có tính mới. Nhưng Luật Thi đua, Khen thưởng không đề cập đến tính mới của giải pháp. Một giải pháp nếu không có tính mới thì không thể gọi là sáng kiến. Bởi việc tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả công tác có thể bằng nhiều cách không cần tính mới (tăng giờ làm trong một ngày lao động cũng có thể làm tăng năng suất lao động). Ngoài việc đưa ra khái niệm về sáng kiến, cho tới thời điểm hiện nay, hệ thống văn bản quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng không có thêm bất cứ quy định nào khác nhằm bổ sung làm rõ các quy định sáng kiến phù hợp với các danh hiệu, thi đua khen thưởng như thế nào là “sáng kiến có phạm vi ảnh hưởng cấp tỉnh”, “sáng kiến có phạm vi ảnh hưởng cấp toàn quốc”.

Hai là, Nghị định 13 đề cập công nhận sáng kiến cho các giải pháp thuộc 4 lĩnh vực (kỹ thuật, tác nghiệp, quản lý, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ), nhưng với quy định cụ thể về tính mới của giải pháp được công nhận sáng kiến nêu tại Khoản 1, Điều 4, Nghị định 13 thì chỉ có các giải pháp kỹ thuật mới có thể thỏa mãn điều kiện công nhận sáng kiến.

Các giải pháp trong các lĩnh vực còn lại, đặc biệt các giải pháp trong lĩnh vực quản lý không thể thỏa mãn các quy định tại Khoản 1, Điều 4, Nghị định 13. Bởi lẽ, giải pháp quản lý khác với giải pháp kỹ thuật ở chỗ, để thực hiện quản lý điều hành một tổ chức, cơ quan hay cộng đồng dân chúng, thì phải ban hành các quyết định quản lý (như việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp quy). Việc áp dụng chỉ thực thi khi quyết định được công bố, ban hành rộng rãi làm cơ sở để triển khai. Điều này sẽ vi phạm các quy định tại điểm b, điểm d của Khoản 1, Điều 4, Nghị định 13. Với việc quy định này thì những người làm công tác quản lý, đặc biệt đối với các công chức thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước sẽ khó có, thậm chí không có sáng kiến theo quy định của Nghị định 13.

Ba là, áp dụng đối tượng loại trừ về công nhận sáng kiến còn chưa hợp lý mặc dù đây là điểm mới về sáng kiến so với quy định trước đây. Việc loại trừ nhằm hướng đến việc nhân rộng, phổ biến các giải pháp sáng kiến phục vụ cho lợi ích cộng đồng.

Nhưng đây cũng chính là điểm chưa phù hợp, vì trong các đối tượng được xác lập quyền sở hữu trí tuệ, có những đối tượng bắt buộc phải thực hiện đăng ký, ví dụ: kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, giải pháp hữu ích,… Tuy nhiên, có những đối tượng, được bảo hộ không cần tiến hành đăng ký, như là các chương trình máy tính. Theo pháp luật sở hữu trí tuệ chương trình máy tính là đối tượng được bảo hộ dưới hình thức quyền tác giả. Một giải pháp là chương trình máy tính hoàn toàn đáp ứng các tiêu chí về tính mới, đã được áp dụng hoặc áp dụng thử, nhưng luôn luôn thuộc đối tượng loại trừ, vì nó là đối tượng được pháp luật bảo hộ dưới hình thức quyền tác giả, mà quyền tác giả được xác lập ngay khi nó được thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định, không cần phải đăng ký theo pháp luật sở hữu trí tuệ. Vì vậy, với quy định hiện nay về sáng kiến tại Nghị định 13, thì một tác giả chương trình máy tính không thể có giải pháp được công nhận sáng kiến.

Hoặc nếu một giải pháp đạt các điều kiện đăng ký bảo quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế và tác giả giải pháp tiến hành nộp đơn đăng ký bảo quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế cho giải pháp của mình trước khi nộp đơn công nhận sáng kiến thì theo quy định loại trừ nêu trên giải pháp đó sẽ không được công nhận sáng kiến.

Bốn là, chưa có sự tương thích giữa Nghị định 13 với Luật Thi đua, Khen thưởng. Theo Nghị định 13, sáng kiến được đánh giá và công nhận trong phạm vi “cơ sở”. “Cơ sơ” quy định trong Nghị định 13 là: “cơ quan, tổ chức được thành lập theo pháp luật, có thể nhân danh chính mình tham gia quan hệ pháp luật dân sự một cách độc lập”. Các cơ sở có quyền đánh giá và công nhận sáng kiến bao gồm: cơ sở là chủ đầu tư tạo ra sáng kiến; cơ sở được tác giả sáng kiến chuyển giao. Nghị định 13 và văn bản hướng dẫn chưa đề cập đến khen thưởng theo các cấp theo mức độ công nhận danh hiệu thi đua, khen thưởng.

Theo quy định của Luật Thi đua, Khen thưởng, thì việc công nhận danh hiệu thi đua “chiến sĩ thi đua” được chia thành 3 cấp: “chiến sĩ thi đua cơ sở”; “chiến sĩ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương”, “chiến sĩ thi đua toàn quốc”. Theo đó, sáng kiến để công nhận chiến sĩ thi đua ở 3 cấp này, được xem xét ở phạm vi ảnh hưởng theo cấp công nhận chiến sĩ thi đua tương ứng, do hội đồng sáng kiến, hội đồng khoa học ở từng cấp công nhận.

Quy mô và khái niệm “cơ sở” của pháp luật thi đua, khen thưởng hoàn toàn khác quy mô và khái niệm “cơ sở” của Nghị định 13. Trong công tác thi đua, khen thưởng, việc thi đua, khen thưởng được tổng kết, đánh giá theo ngành, địa giới hành chính.

Theo Luật thi đua khen thưởng, tại các địa phương, danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở” có thể do chủ tịch UBND huyện, thị xã, thành phố hoặc Giám đốc sở, ban, ngành;… công nhận. Sáng kiến để xét thi đua, khen thưởng do hội đồng sáng kiến, hội đồng khoa học tại huyện, thị xã, thành phố hoặc các sở, ban, ngành;… xem xét đánh giá trong phạm vi cấp cơ sở đó.

Trong cấp cơ sở có thể có nhiều “cơ sở” là cơ quan, tổ chức được thành lập theo pháp luật, có thể nhân danh chính mình tham gia quan hệ pháp luật dân sự một cách độc lập theo quy định của Nghị định 13. Ví dụ, tại Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ngoài Văn phòng Sở còn có các trung tâm, chi cục,... là các “cơ sở” có thể đánh giá và công nhận để khen thưởng, trả thù lao cho sáng kiến của mình theo quy định của Điều lệ sáng kiến theo Nghị định 13. Tính mới của “cơ sở” quy định tại Nghị định 13 và “cấp cơ sở” của Luật Thi đua, Khen thưởng không đồng nhất về quy mô xem xét, đánh giá. Một sáng kiến có thể mới ở tại đơn vị trực thuộc một Sở, nhưng chưa chắc đã mới ở “cấp sở”.

Và như vậy, một sáng kiến được công nhận ở cơ sở theo Nghị định 13 không được sử dụng ở các cấp cao hơn để xét thi đua, khen thưởng, mặc dù như đã biết để sáng kiến được công nhận theo Nghị định 13 thì sáng kiến đó thực sự là “mới” và có hiệu quả và thậm chí sáng kiến đó có thể đáp ứng điều kiện để bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp về sáng chế (tính mới yêu cầu đối với sáng chế mang giá trị tuyệt đối, mới trên toàn cầu). Điều này, cũng dẫn đến một thực trạng là các cơ quan, đơn vị thuộc hệ thống chính trị chưa hiểu thấu đáo về công tác sáng kiến. Sáng kiến vẫn được hiểu là phục vụ cho công tác thi đua, khen thưởng. Từ đó, hạn chế việc phát huy sáng kiến, đổi mới sáng tạo trong việc nâng cao năng suất, cải tiến chất lượng hoạt động. Trên cả nước, đã có nhiều tỉnh, thành phố xây dựng và triển khai quy định thi hành Điều lệ Sáng kiến ở địa phương, tuy nhiên việc xây dựng các quy định này vẫn còn “phục vụ” cho công tác thi đua, khen thưởng hơn là đi vào thực chất của công tác sáng kiến.

 

Tập huấn Đăng ký, công nhận và khai thác sáng kiến tại tỉnh Sóc Trăng năm 2019

Tóm lại, sáng kiến là kết quả của hoạt động sáng tạo, rất cần thiết cho công cuộc đổi mới, phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhà nước đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, gắn liền với những quyền lợi vật chất và giá trị tinh thần để thúc đẩy họat động sáng kiến. Tuy nhiên, vì chưa có sự thống nhất quy định khác nhau về sáng kiến nên việc áp dụng hiện nay còn nhiều bất cập. Do vậy, các cơ quan có thẩm quyền cần xem xét chỉnh sửa, bổ sung để hoàn thiện các quy định về sáng kiến cho phù hợp nhằm đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ thực tiễn để triển khai áp dụng rộng rãi tại các địa phương.

Nguyễn Phạm Thu Hiền

Thông báo - Hướng dẫn

HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG
No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... 4 5 6 No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title... No title...
SỐ LƯỢT TRUY CẬP
  • Tất cả: 1571810
SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH SÓC TRĂNG
Địa chỉ: 217 Trần Bình Trọng – Phường 2 – TP Sóc Trăng – Tỉnh Sóc Trăng,
Điện thoại: 0299 3822450, Fax: 0299 3821448 , Email: sokhcn@soctrang.gov.vn
Giấy phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp trên mạng số 02/GP-STTTT do Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 23/9/2016.